THANH HÓA – VÙNG BẮC TRUNG BỘ

Xứ Thanh – miền đất “địa linh nhân kiệt”, nơi khởi nguồn của nhiều giá trị lịch sử, văn hóa xuyên suốt từ thuở các vua Hùng dựng nước cho tới thời đại Hồ Chí Minh. Mảnh đất có đầy đủ các hình thái địa văn hoá, vừa chứa đựng trong đó những thành tố văn hoá đa dạng, đặc sắc. Là cái nôi nuôi dưỡng bao thế hệ anh hùng, hào kiệt của dân tộc Việt Nam.

Giới thiệu về Thanh Hóa

Thanh Hóa là tỉnh ven biển cực bắc vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Hạc Thành. Một trong những trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ và cả nước về công nghiệp năng lượng và chế biến, chế tạo; nông nghiệp; dịch vụ logistic, du lịch, giáo dục, y tế chuyên sâu và văn hoá, thể thao. Về lịch sử, Thanh Hóa có bề dầy lịch sử hào hùng và truyền thống văn hoá độc đáo khi tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam từ nhà Hậu Lê về sau (Nhà Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn) đều có quê hương phát tích ở đây, minh chứng cho vai trò to lớn của vùng đất trong việc định hình vận mệnh quốc gia. 

Lễ hội đền Bà Triệu.

Suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Thanh Hóa đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Khương Công Phụ, Lê Thánh Tông, Lê Văn Hưu, Đào Duy Từ,… Cùng với những trang lịch sử oai hùng, Thanh Hóa ngày nay có đến 1.535 di tích, trong đó có 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412 di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi tiếng như Núi Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng … càng khẳng định xứ Thanh là một vùng “Địa linh nhân kiệt”.

I. Thanh Hóa Ở Đâu

Vị trí địa lý Thanh Hóa là tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam trên những phương diện. Về hành chính, Thanh Hóa là tỉnh miền Trung, tiếp giáp với Tây Bắc Bộ và đồng bằng Bắc Bộ, cách Thủ đô Hà Nội 150km về phía Nam, cách TP. Hồ Chí Minh 1.560km về phía Bắc. Về địa chất, miền núi Thanh Hóa là sự nối dài của Tây Bắc Bộ trong khi đồng bằng Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Trung Bộ, ngoài ra 1 phần (phía Bắc huyện Nga Sơn) thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Thanh Hóa có vị trí địa lý: Phía đông giáp Biển Đông với đường bờ biển dài hơn 102km; Phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn, Lào với đường biên giới 192km; Phía nam giáp tỉnh Nghệ An; Phía bắc giáp tỉnh Ninh Bình, tỉnh Phú Thọ, tỉnh Sơn La. Địa hình chia làm 3 vùng, đồng bằng, ven biển, trung du miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km². Hiện nay Thanh Hóa có 166 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 147 xã và 19 phường.

Bản đồ du lịch Thanh Hóa.

Địa hình, địa mạo Địa hình Thanh Hóa nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Ở phía Tây Bắc, những đồi núi cao trên 1000 m đến 1500m thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía Đông Nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của tỉnh. Dựa vào địa hình có thể chia Thanh Hóa ra làm các vùng miền:

 Miền núi và trung du: Miền núi và trung du chiếm phần lớn diện tích của Thanh Hóa. Riêng miền trung du diện tích bị xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở Bắc Bộ. Do đó những nhà nghiên cứu đã không tách miền trung du của Thanh Hóa thành một bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là 1 phần không tách rời của miền núi nói chung. Và miền núi Thanh Hóa được chia làm các bộ phận khác nhau. Vùng đồi núi phía Tây có khí hậu mát hơn, lượng mưa lớn hơn nên có nguồn lâm sản dồi dào hơn, có tiềm năng thủy điện, trong đó sông Chu và các phụ lưu. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp hơn, đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây đặc sản và có Vườn quốc gia Bến En, có rừng phát triển.

 Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền Trung và thứ 3 của cả nước. Đồng bằng Thanh Hóa có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Điểm đồng bằng thấp nhất so với mực nước biển là 1m.

 Vùng ven biển: Các huyện cũ từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Nghi Sơn, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Lạch Bạng. Bờ biển dài, tương đối bằng phẳng, có những bãi tắm nổi tiếng, có những vùng đất đai thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thủy sản, phân bố các khu dịch vụ, khu công nghiệp, phát triển kinh tế biển.

II. Khí hậuThanh Hóa

Thanh Hóa cao hơn 10m so với mực nước biển, có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23 – 24 0C, địa hình càng lên cao nhiệt độ càng giảm. Lượng mưa hàng năm với trung bình 90-130 ngày mưa. Tháng khô nhất là tháng 2, tháng 8 mưa nhiều lượng mưa đạt cực đại. Tháng 6 là tháng nhiều nắng, nóng nhất trong năm với nhiệt độ trung bình là 29,7 0C. Ở 17,1 0C, tháng Giêng là tháng lạnh nhất trong năm. Với đặc trưng khí hậu mưa nhiều, nhiệt độ cao, nhiều giờ nắng Thanh Hóa có điều kiện thời tiết thuận lợi cho phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

Thời gian tốt nhất trong năm để đến thăm Thanh Hóa cho các hoạt động thời tiết ấm áp là từ đầu tháng 2 đến giữa tháng 4 và từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 7. Thời điểm này trùng với khí hậu Thanh Hóa mùa xuân và mùa hè, thuận lợi cho các hoạt động ngoài trời, đặc biệt là tắm biển.

Mùa xuân kéo dài từ tháng 2 đến tháng 4, trùng với dịp Tết Nguyên đán. Nhiệt độ mùa xuân mát mẻ, dễ chịu cùng với một số cơn mưa xuân. Mùa xuân cũng là mùa diễn ra nhiều lễ hội rất giàu bản sắc, đậm nét văn hóa riêng của xứ Thanh. Trong hơi xuân phơ phất, giữa thời khắc thiêng liêng giao hòa của đất trời, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những điệu múa, lễ hội cầu cho một năm mới ấm no, hạnh phúc của người dân.

Carnival đường phố, lễ hội du lịch biển Sầm Sơn. Ảnh: Sun Word
Carnival đường phố, lễ hội du lịch biển Sầm Sơn. Ảnh: Sun Word

Khí hậu mùa hè Mùa nóng Thanh Hóa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8, có khi kéo dài đến tháng 10. Khí hậu Thanh Hóa nằm trong vùng gió Lào khô và nóng khiến nhiệt độ mùa hè nhiều lúc tăng cao, có lúc không chịu được. Nắng nóng đỉnh điểm thường rơi vào tháng 7. Mùa hè ở đây mưa khá nhiều nên dễ xảy ra bão lụt.

Mùa hè nắng nóng nên sẽ rất thích hợp cho việc tắm biển. Du khách sẽ có những trải nghiệm khó quên khi đắm mình trong làn nước biển xanh mát tại Sầm Sơn, Hải Tiến…lắng nghe những bản nhạc của sóng và gió hay chợp mắt trên bãi cát đầy nắng. Thưởng thức hải sản tươi sống của địa phương và mang về nhà những món quà lưu niệm xinh xắn.

Khí hậu mùa thu từ tháng 9 đến T10 nhiệt độ trung bình khoảng 290C. Mùa thu Thanh Hóa có lễ hội Lam Kinh (ngày giỗ vua Lê Thái Tổ) diễn ra vào ngày 22 tháng 8 Âm lịch nhằm tưởng nhớ công ơn của nhiều vị vua nhà Lê giành lại độc lập dân tộc từ tay giặc Minh. Đây cũng là thời điểm thiên nhiên Thanh Hóa khoác lên mình màu áo thu dịu dàng, nên thơ, quyến rũ.

Mùa đông lạnh giá thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng Giêng năm sau. Mùa này Thanh Hóa thường hay xuất hiện gió mùa Đông Bắc, mưa ít, đầu mùa thường hanh khô. Mùa đông gõ cửa là lúc cả vùng đất Thanh Hóa khoác trên mình tấm voan mỏng với vẻ đẹp kiêu sa. Thời tiết mùa đông ở đây khá lạnh, nhiệt độ có thể xuống đến 12 – 150C. Tuy nhiên khí hậu này đã góp phần tạo nên khung cảnh thiên nhiên đa dạng, hấp dẫn và quyến rũ.

III. Du lịch Thanh Hóa mùa nào đẹp

Du lịch Thanh Hóa thu hút du khách quanh năm bởi cảnh quan thiên nhiên đa dạng, nhiều điểm tham quan thú vị cùng vô vàn món ngon hấp dẫn. Để có chuyến du hí xứ Thanh trọn vẹn, bạn đừng quên cập nhật thời tiết Thanh Hóa để chuẩn bị, lên kế hoạch tốt nhất cho chuyến vui chơi.

Các bạn trẻ thích thú check-in với biển Thanh Hóa. Ảnh: Quách Du
Các bạn trẻ thích thú check-in với biển Thanh Hóa. Ảnh: Quách Du

Thời điểm thích hợp nhất để đi du lịch Thanh Hóa

Do sự chi phối của địa hình và những tương tác với các vùng lân cận mà Thanh Hoá có sự phân dị về khí hậu theo vùng, với các vùng khí hậu đặc trưng:

 Vùng ven biển, nơi có các địa danh du lịch nổi tiếng như Hải Tiến, Sầm Sơn, Hải Hòa, Tĩnh Gia có nền nhiệt độ cao, mùa đông không quá lạnh, mùa hè nóng và có thể có bão. Với vùng này các bạn có thể đi du lịch tới đây vào các tháng từ 4-8, thời tiết mùa hè sẽ rất phù hợp cho các chuyến đi nghỉ dưỡng tắm biển với không khí thoáng đãng hay các hoạt động vui chơi ngoài trời. Tham gia nhiều lễ hội như: lễ hội biển, lễ hội Carnival đường phố, lễ hội Bánh chưng – Bánh Giầy diễn ra từ ngày 11 – 13 tháng 5 âm lịch. Cần chú ý một chút khoảng tháng 6-8 có thể có bão.

Vùng đồng bằng Đây là vùng có nhiều di tích văn hoá và lịch sử nổi tiếng làm nên vùng đất “Địa linh nhân kiệt”. Vùng đồng bằng có nhiệt độ trung bình không quá cao, mùa hè khá nóng, mùa đông tương đối lạnh. Bạn có thể đến đây vào mùa xuân để tham gia nhiều hoạt động lễ hội lý thú. Một số thời điểm diễn ra những lễ hội nổi tiếng, bạn có thể đến như Lễ hội Bà Triệu ngày 20–23 tháng 2 Âm lịch tại vùng Hậu Lộc, tham quan, tìm hiểu nhiều nghi thức trang trọng như tế lễ, rước kiệu , Hội trận, hát chầu văn,… Hay đến vào mùa thu, tham dự lễ hội Lam Kinh ở vùng Thọ Xuân. Đến tham quan khu di tích cổ kính hàng trăm năm, vãn cảnh an yên và hoà mình vào nhiều hoạt động đặc sắc.

 Vùng trung du  đồi núi cao Các huyện cũ Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Bá Thước. Vùng này giáp với vùng Tây Bắc nên cũng có khá nhiều điểm chung với khí hậu ở đây. Mùa đông thường khá lạnh, mùa hè mát mẻ nhưng dễ gặp mưa và có thể có lũ quét. Với những du khách yêu thích khám phá núi rừng, bản làng thì Tây Thanh Hóa, Pù Luông có thể đi vào khoảng tháng 4-6 hoặc tháng 9-11 do lúc này chưa mưa quá nhiều, Ngắm Pù Luông mùa lúa chín trên những thửa ruộng bậc thang đẹp như những dải lụa óng ánh, đến đây bạn tha hồ chụp ảnh check in. Thăm những bản làng bình yên như Kho Mường, bản Đôn, bản Chiềng Lao,… Tắm thác hay trekking khu bảo tồn thiên nhiên hoang sơ.

ngắm bình minh trên đỉnh núi vì đây là khoảnh khắc đẹp nhất không thể bỏ lỡ
Bình minh trên đỉnh núi phía Tây xứ Thanh.

Ngoài ra, nếu là người yêu thích tìm hiểu văn hoá đừng quên tham gia vào Lễ hội Pồôn Pôông “chơi Hoa” của người Mường dịp rằm tháng Giêng, rằm tháng Ba và rằm tháng Bảy. Địa điểm diễn ra tại các bản ở huyện cũ Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước của Thanh Hóa. Lễ hội cuốn hút với những chùm hoa gỗ lung linh sắc màu. Tiếng trống, tiếng chiêng mời gọi du khách gần xa về vui hội. 

IV. Đi đến Thanh Hóa bằng gì

Du lịch Thanh Hóa luôn là điểm đến hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước bởi sự đa dạng về văn hóa, thiên nhiên và ẩm thực. Để có một chuyến du lịch Thanh Hóa thuận lợi, việc tìm hiểu về cách di chuyển là vô cùng quan trọng. 

Cầu Hàm Rồng là điểm đến nổi tiếng trên bản đồ du lịch Thanh Hóa (Ảnh Sưu tầm)
Cầu Hàm Rồng điểm đến nổi tiếng trên bản đồ du lịch Thanh Hóa. Ảnh Sưu tầm

Thanh Hoá có hệ thống giao thông thuận lợi như đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1a, 10, ĐCT Bắc – Nam (45), 47, 217. Đầu tiên, khi du lịch Thanh Hóa từ Hà Nội, du khách có thể lựa chọn nhiều phương tiện khác nhau. Xe khách là lựa chọn phổ biến nhất với thời gian di chuyển khoảng 3-4 giờ từ bến xe Mỹ Đình, Giáp Bát. Ngoài ra, tàu hỏa cũng là một phương tiện thú vị bởi nó mang lại trải nghiệm thoải mái và cơ hội ngắm cảnh sắc dọc đường đi với các tàu SE1, SE2, SE4 là những tàu chạy nhanh nhất cho chặng Hà Nội – Thanh Hóa.

Từ thành phố Hồ Chí Minh, bạn có thể đi xe khách, tàu hỏa ra Thanh Hóa, nhưng đi bằng máy bay là cách tốt nhất để tiết kiệm thời gian và sức khỏe. Chuyến bay từ sân bay Tân Sơn Nhất đến sân bay Thọ Xuân chỉ mất gần 2 giờ. Từ sân bay Thọ Xuân, du khách có thể sử dụng dịch vụ taxi hoặc xe buýt để di chuyển về trung tâm Thanh Hóa.

Khi đã đến Thanh Hóa, việc di chuyển giữa các điểm du lịch cũng rất thuận tiện. Du khách có thể thuê xe máy hoặc xe ô tô tự lái tại các cửa hàng thuê xe uy tín. Việc này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn mang lại sự linh hoạt trong hành trình. Nếu không muốn tự lái xe, du khách có thể lựa chọn dịch vụ taxi hoặc xe du lịch với các tài xế giàu kinh nghiệm và am hiểu địa phương.

Đi du lịch Thanh Hóa theo Tour du lịch đây là cách đi du lịch phổ biến, an toàn và tiết kiệm nhất, du khách nên áp dụng, đặc biệt là khi đi theo đoàn bởi đội ngũ tổ chức và dẫn Tour là chuyên nghiệp. Nếu đi du lịch theo Tour bạn có thể đặt Tour riêng hoặc Tour ghép đoàn, xuất phát từ Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh hoặc bất cứ đâu, giá Tour sẽ tùy theo điểm xuất phát và số ngày bạn tham quan du lịch.

V. Lịch sửđịa danh Thanh Hóa

1. Thời tiền sử 

Vào sơ kỳ thời đại đá cũ, bằng sự phát hiện và khai quật khảo cổ các di chỉ Núi Đọ, Núi Quan Yên, Núi Nuông đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của người nguyên thuỷ, đặc biệt hang Con Moong là nơi chứng kiến các giai đoạn phát triển liên tục của con người từ hậu kỳ đá cũ sang thời đại đá mới. Quá trình chinh phục đồng bằng trên đất Thanh Hóa của cư dân đồ đá mới đã để lại một nền văn hoá Đa Bút, là một nền văn hoá khảo cổ tiến bộ cùng thời trong khu vực cách đây 6.000 năm. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hoá Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối – Quỳ Chữ tương đương với các văn hoá Phùng Nguyên – Đồng Dậu – Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Đó là quá trình chuẩn bị mọi mặt để đến văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm lịch sử, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các Vua Hùng.

Trống đồng Đông Sơn, hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn
Trống đồng Đông Sơn, hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn

2. Thời kỳ dựng nước Địa phận Thanh Hóa vào thời Văn Lang gồm bộ Quân Ninh và phần lớn bộ Cửu Chân. Bộ Quân Ninh chính là khu vực các vùng Cẩm Thủy, Thạch Thành, Hà Trung, Bỉm Sơn của Thanh Hóa và gần toàn bộ tỉnh Ninh Bình ngày nay (trừ vùng Kim Sơn), còn bộ Cửu Chân gồm phía nam Thanh Hóa và bắc Nghệ An.

3. Thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN–938)

Nhà Hán Thời kì thuộc Hán, Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân. Quận Cửu Chân vào đầu thời kì thuộc Hán gồm có bảy huyện là Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Thời Hậu Hán, quận Cửu Chân gồm năm huyện là Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công (Vô Thiết), Vô Biên. Trong đó, huyện Hàm Hoan tương ứng với Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay còn huyện Vô Công hay Vô Thiết tương ứng với các vùng Gia Viễn, Nho Quan, Yên Khánh, nói cách khác là gần như toàn bộ tỉnh Ninh Bình (cũ) ngày nay (trừ vùng Kim Sơn).

Thời Tam quốc và Lưỡng Tấn Thời Tam Quốc, nhà Đông Ngô trực tiếp cai trị, tách quận Cửu Chân thành hai quận: Cửu Chân và Cửu Đức. Quận Cửu Chân lúc này gồm đất Thanh Hóa ngày nay và một phần phía nam Ninh Bình. Cửu Chân bị chia làm 6 huyện. Sang thời nhà Tấn, lập thêm 1 huyện thành 7 huyện.

Thời Nam Bắc triều Thời nhà Tống, đất Thanh Hóa cùng với phía nam Ninh Bình vẫn là quận Cửu Chân, gồm các huyện cũ thời Tấn (Tư Phố, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Phù Lạc, Thường Lạc, Tùng Nguyên) và thêm các huyện: Cao An, Quân An, Vũ Ninh, Ninh Di, trong đó huyện Cao An được tách ra từ huyện Thường Lạc.

Thời nhà Tề, huyện Ninh Di bị giải thể, huyện Đô Lung (có từ thời Hán) đổi làm huyện Cát Lung. Thời nhà Lương, các quận được đổi hoặc chia thành các châu, quận Cửu Chân được Lương Võ đế đổi thành Ái Châu.

Thời nhà Tùy, Ái Châu được đổi lại là quận Cửu Chân, gồm các huyện: Tư Phố, Long An, Quân An, An Thuận và Nhật Nam.

Nhà Đường Năm Vũ Đức thứ 5 (622), nhà Đường đổi quận Cửu Chân thành Ái Châu Cửu Chân quận, thường gọi là Ái Châu, thuộc Giao Châu đại tổng quản phủ. Nhà Đường tách phần đất của Cửu Chân thuộc Ninh Bình ngày nay để lập Trường Châu Văn Dương quận, năm 758 đổi thành Trường Châu. Ái Châu gồm bốn huyện là Cửu Chân, Tùng Nguyên, Dương Sơn, An Thuận, tại biên giới của Ái Châu lại đặt 7 châu: Tích, Thuận, Vĩnh, Tư, Tiền, Chân và Sơn,…

4. Thời kỳ tự chủ (939–1945)

Thời Đinh, Tiền Lê, Lý Nhà Đinh và Tiền Lê gọi là đạo Ái Châu. Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu. Lý Công Uẩn chia cả nước thành 24 lộ, trong đó có Thanh Hóa lộ. Tên gọi Thanh Hoá bắt đầu có từ đây. Năm 1029, nhà Lý đổi làm phủ Thanh Hoá. Ruộng đất Thanh Hoá bắt đầu bị nhà vua lấy ban cho các đại thần dưới dạng phong ấp. Đó chính là chế độ phong kiến hình thành ở nước ta.

Thời Trần, Hồ Năm 1242, vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ đời Lý thành 12 lộ, trong đó có Thanh Hóa phủ lộ. Năm 1397 (năm Quang Thái thứ 10, đời vua Trần Thuận Tông), Lê Quý Ly làm phụ chính thái sư, cho đổi Thanh Hóa phủ lộ làm trấn Thanh Đô. Trấn Thanh Đô lúc này gồm 3 châu (mỗi châu có 4 huyện) và 7 huyện là: Huyện Cổ Đằng, Cổ Hoằng, Cổ Lôi, Vĩnh Ninh, Yên Định, Lương Giang, Đông Sơn (Tên huyện Đông Sơn bắt đầu có từ đây). Và 3 châu là: Châu Thanh Hóa (gồm huyện Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang); Châu Ái (gồm huyện Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga); Châu Cửu Chân (gồm huyện Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông Cống).  

Năm 1403, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: Phủ này (tức phủ Thiên Xương) cùng Cửu Chân và Ái Châu làm “tam phủ” gọi là Tây Đô.

Thành nhà Hồ, kinh đô duy nhất xây dựng chủ yếu bằng đá, rất hiếm trên thế giới.
Thành nhà Hồ, kinh đô duy nhất xây dựng chủ yếu bằng đá, rất hiếm trên thế giới.

Thuộc Minh Năm 1407, nhà Minh đổi phủ Thiên Xương trở lại làm phủ Thanh Hóa như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi Dương, Thụy Nguyên. Về địa giới vẫn không đổi. Sách “Đại Nam nhất thống chí” cũng ghi: “Thời thuộc Minh lại làm phủ Thanh Hóa, lãnh 4 châu là Cửu Chân, ái Châu, Thanh Hóa, Quỳ Châu và 11 huyện”. Trong đó, 11 huyện là Yên Định, Nông Cống, Vĩnh Ninh, Tống Giang, Cổ Đằng, Nga Lạc, Lương Giang, Lỗi Giang, Đông Sơn, Yên Lạc, Cổ Lôi.

Thời Hậu Lê Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Thái Tổ chia cả nước làm 5 đạo, Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo. Trong niên hiệu Thuận Thiên, Thanh Hóa gồm các huyện: Ứng Thụy, Bình Giang…

Năm Thiệu Bình thứ 2 (1435), đất Thanh Hóa gồm 6 phủ là: Phủ Thiệu Thiên (Thiệu Hóa) – có 8 huyện Thụy Nguyên, Vĩnh Phúc (Vĩnh Lộc), Đông Sơn, Lôi Dương, Yên Định, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Quảng Bình. Phủ Hà Trung – có 4 huyện Hoằng Hóa, Thuần Lộc (Hậu Lộc), Nga Sơn, Tống Sơn. Phủ Tĩnh Gia – có 3 huyện Nông Cống, Ngọc Sơn, Quảng Xương. Phủ Thanh Đô – có 4 châu và 1 huyện là huyện Thọ Xuân và các châu: Khai Na (Quan Da), Tàm (châu), Lương Chính (Lang Chánh), Sầm (châu) (nay thuộc Lào). Phủ Trường Yên (nay là một phần tỉnh Ninh Bình) – có 3 huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (Yên Khánh). Phủ Thiên Quan (Nho Quan) – nay thuộc các tỉnh Ninh Bình và Hòa Bình, Phú Thọ. Có 3 huyện: Phụng Hóa, Yên Hóa, Lạc Thổ (Lạc Sơn).

Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo Thừa tuyên, trong đó có Thừa tuyên Thanh Hóa, đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Cùng năm, trích 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan sáp nhập vào Sơn Nam. Thừa tuyên Thanh Hóa lúc này gồm 4 phủ, 16 huyện và 4 châu, trong đó có phủ Tĩnh Ninh. 

Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đổi làm Thừa Tuyên Thanh Hoa, tên gọi Thanh Hoa có từ đây. Thanh Hoa Thừa Tuyên theo “Thiên Nam dư hạ tập” lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4 châu. Cùng năm, lập châu Lang Chánh thuộc phủ Thanh Đô. 

Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), đổi làm xứ Thanh Hoa. Trong niên hiệu Đoan Khánh (1505-1509) thời Lê Uy Mục, là xứ Thanh Hoa. Trong niên hiệu Hồng Thuận (1509-1516), Lê Tương Dực đổi làm trấn Thanh Hoa. Thời Lê trung hưng, đổi làm nội trấn Thanh Hoa, lại lấy 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan của trấn Sơn Nam, gọi là ngoại trấn Thanh Hoa.

Thời Tây Sơn Huyện Quảng Bình đổi làm huyện Quảng Bằng, nhà Nguyễn đổi lại là Quảng Bình rồi lại đổi làm Quảng Địa. Châu Lang Chánh đổi thành Lương Chính.

Thời Nguyễn Năm Gia Long 1(1802), gọi là trấn Thanh Hoa. Năm Minh Mệnh thứ 2(1821), đổi đạo Thanh Bình (đã được đổi từ ngoại trấn Thanh Hoa) làm đạo Ninh Bình, năm Minh Mệnh thứ 10 đổi riêng làm trấn Ninh Bình. Năm Minh Mệnh thứ 12(1831), đổi trấn Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hoa, trấn Ninh Bình (lúc này không còn lệ thuộc vào Thanh Hoa) cũng đổi thành tỉnh Ninh Bình.

Năm Thiệu Trị thứ 1(1841), đổi tỉnh Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hóa do kị húy hoàng thái hậu Hồ Thị Hoa. Tên Thanh Hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay.

Tỉnh Thanh Hóa vào đầu thời Nguyễn gồm các phủ: Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia và Thanh Đô (năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đổi là phủ Thọ Xuân). Sau đó lập thêm phủ Quảng Hóa…

Sầm Châu: Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), tù trưởng đất này xin nội phụ Việt Nam. Sau đó đổi Sầm Châu làm huyện Sầm Nưa và cho thuộc phủ Trấn Biên, tỉnh Nghệ An. Nay là tỉnh Huaphanh của Lào.

5. Thời kỳ hiện đại (sau năm 1945)

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các cấp hành chính là châu, phủ, quận bị bãi bỏ. Tỉnh Thanh Hóa lúc này có 21 đơn vị hành chính gồm thị xã Thanh Hóa và 20 huyện: Bá Thước, Cẩm Thủy, Đông Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Lang Chánh, Nga Sơn, Ngọc Lặc, Như Xuân, Nông Cống, Quan Hóa, Quảng Xương, Thạch Thành, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Thường Xuân, Tĩnh Gia, Vĩnh Lộc, Yên Định.

Năm 1963, thành lập thị trấn Sầm Sơn trực thuộc tỉnh Thanh Hóa từ thị trấn Sầm Sơn cũ thuộc huyện Quảng Xương.

Ngày 25 tháng 2 năm 1965, huyện Triệu Sơn được thành lập trên cơ sở tách 13 xã thuộc huyện Thọ Xuân và 20 xã thuộc huyện Nông Cống.

Từ cuối năm 1967, thị trấn Sầm Sơn tạm thời trực thuộc huyện Quảng Xương, đến gần cuối năm 1968 thì trở lại trực thuộc tỉnh.

Ngày 29 tháng 6 năm 1977, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng ra Quyết định số 140-BT về việc thành lập thị trấn Bỉm Sơn trực thuộc tỉnh Thanh Hóa từ một phần huyện Hà Trung.

Ngày 5 tháng 7 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Hà Trung và Nga Sơn thành huyện Trung Sơn; hợp nhất 2 huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành thành huyện Vĩnh Thạch; hợp nhất 2 huyện Lang Chánh và Ngọc Lặc thành huyện Lương Ngọc; hợp nhất huyện Yên Định và 15 xã của huyện Thiệu Hóa ở tả ngạn sông Chu thành huyện Thiệu Yên; hợp nhất huyện Đông Sơn và 16 xã còn lại của huyện Thiệu Hóa ở hữu ngạn sông Chu thành huyện Đông Thiệu.

Ngày 18 tháng 12 năm 1981, thành lập các thị xã Bỉm Sơn và Sầm Sơn từ 2 thị trấn cùng tên và một phần các huyện Trung Sơn, Quảng Xương.

Ngày 30 tháng 8 năm 1982, chia các huyện Lương Ngọc, Trung Sơn, Vĩnh Thạch thành các huyện như cũ; đổi tên huyện Đông Thiệu thành huyện Đông Sơn mà vẫn giữ nguyên địa giới.

Ngày 1 tháng 5 năm 1994, chuyển thị xã Thanh Hóa thành thành phố Thanh Hóa.

Ngày 18 tháng 11 năm 1996, chia huyện Quan Hóa thành 3 huyện: Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát; chia huyện Như Xuân thành 2 huyện: Như Xuân và Như Thanh; hợp lại 16 xã thuộc huyện Đông Sơn ở hữu ngạn sông Chu và 15 xã thuộc huyện Thiệu Yên ở tả ngạn sông Chu thành huyện Thiệu Hóa; đổi tên huyện Thiệu Yên thành huyện Yên Định.

Ngày 19 tháng 4 năm 2017, chuyển thị xã Sầm Sơn thành thành phố Sầm Sơn.

Ngày 1 tháng 6 năm 2020, chuyển huyện Tĩnh Gia thành thị xã Nghi Sơn.

Ngày 1 tháng 1 năm 2025, sáp nhập toàn bộ huyện Đông Sơn vào thành phố Thanh Hóa.

Ngày 1 tháng 7 năm 2025, sáp nhập lại toàn bộ các xã, bỏ cấp huyện, thực hiện chính quyền 3 cấp đổi mới.

VI. Văn hóa Xứ Thanh

Xứ Thanh – Nằm ở dải đất địa đầu miền Trung đầy nắng gió khắc nghiệt và cũng chính điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử đã tạo cho văn hóa xứ Thanh nhiều nét riêng biệt, hay có một màu sắc khó trộn lẫn. Có ý kiến cho rằng, nhìn từ góc độ hành chính thì Thanh Hóa thuộc khu vực miền Trung, nhưng xét trên phương diện văn hóa thì đây là một “tiểu vùng” văn hóa thuộc vùng văn hóa đồng bằng Bắc bộ. Về ngôn ngữ, người Thanh Hóa có âm vực giống với phương ngữ Bắc Bộ, khác về cách phát âm các từ và sử dụng các từ ngữ của phương ngữ Nghệ – Tĩnh. Cũng vì đặc điểm địa lý và xã hội ấy đã mang đến cho “gương mặt văn hóa” xứ Thanh những nét khác biệt trong diện mạo tổng thể văn hóa dân tộc.

Văn hóa xứ Thanh vốn đã nằm trong không gian văn hóa Việt cổ, là nơi ghi đậm dấu tích nền văn hóa Đông Sơn – một khởi nguồn của văn hóa Đại Việt, văn hóa Việt Nam hiện nay, lại nằm gọn trong vùng văn hóa sông Mã, Thanh Hóa đã góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam nhiều di sản và bảo vật quốc gia quý giá. Trong đó, từ môi trường sinh thái nhân văn gắn với các thiết chế xã hội, gia đình, dòng họ, cộng đồng… là cơ sở để kết tinh nên các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm dấu ấn tư duy, lối ứng xử của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội.

Lễ hội Lam Kinh là sự kiện văn hóa quan trọng diễn ra tại Thanh Hóa. Ảnh Quách Du
Lễ hội Lam Kinh, sự kiện văn hóa long trọng diễn ra tại Thanh Hóa. Ảnh: Quách Du

Xứ Thanh là miền đất cổ, lưu giữ nhiều dấu ấn của lịch sử, văn hóa dân tộc. Cách đây khoảng 6.000 năm đã có con người cổ sinh sống từ địa bàn rừng núi (núi Đọ, hang Con Moong), tiến ra trước núi, kéo xuống đồng bằng (Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa), rồi chiếm lĩnh biển khơi (Gò Trũng, Hoa Lộc). Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn tiền văn hoá Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối – Quỳ Chữ tương đương với văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. 

Nằm trong vùng đệm rừng quốc gia Cúc Phương, di tích quốc gia đặc biệt hang Con Moong và các di tích phụ cận (bản Mọ) kể cho hậu thế nhiều câu chuyện lý thú về truyền thống cư trú hang động, truyền thống sử dụng công cụ đá và sự tiến triển về loại hình, kỹ thuật chế tác công cụ. Đồng thời, nó cho thấy sự biến đổi của khí hậu và sự thích ứng của con người trong suốt nhiều vạn năm. Đó trước hết là câu chuyện về sự thay đổi từ kỹ nghệ công cụ đá, với sự độc tôn của kỹ nghệ mảnh tước đá Quartz hơn 6-4 vạn năm trước, sang kỹ nghệ cuội ghè và mảnh tước giai đoạn 4-2 vạn năm, để rồi xác lập ở đây các yếu tố văn hóa đá cũ Sơn Vi, đá mới Hòa Bình, đến văn hóa sau Hòa Bình. Đặc biệt, với những lớp trầm tích văn hóa còn nằm sâu trong lòng di tích và cả những hiện vật đã khai quật, nghiên cứu, giới khoa học cho rằng hang Con Moong và các di tích phụ cận là một “bảo tàng khảo cổ học” hết sức sống động hay một pho “sử thi” đồ sộ bằng di vật về lịch sử hình thành, tiến hóa và phát triển không ngừng của loài người.

Tiếp đó là nền văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa với kỹ thuật chế tác đồ đồng. Những chiếc thạp đồng, vạc đồng, mũi giáo, mảnh gốm…và trống đồng, không chỉ là hiện vật khảo cổ, mà còn là minh chứng sống động của một nền văn hóa phát triển sớm, đạt tới đỉnh cao đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các vua Hùng. Không chỉ là di chỉ khảo cổ, mà truyền thuyết và di tích thời đại Hùng Vương từ vùng đất Tổ trung châu đã theo các dòng sông lớn về tận miền đất Cửu Chân với các truyền thuyết về Thánh Gióng, Mai An Tiêm, di tích Hùng Trinh Vương, Phan Tây Nhạc, An Dương Vương…

Trải qua nhiều nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, xứ Thanh “là sân khấu chính trị” của các cuộc khởi nghĩa và các vương triều: Bà Triệu, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Lê Trung Hưng, Nguyễn… Trong đó, di sản vật thể phải kể đến các di tích lịch sử tiêu biểu như: Đền Bà Triệu, Khương Công Phụ; đền Lê Hoàn thời Tiền Lê; Đền Đồng Cổ – thờ thần trống đồng, đền thờ Lý Thường Kiệt và hệ thống chùa gắn với tên tuổi của vị tướng tài ba (Hương Nghiêm, Linh Xứng, Sùng nghiêm Diên Thánh), Bảng Môn Đình… thời Lý; đền thờ Trần Hưng Đạo, bia Tràng Kênh, Trần Nghệ Tông và chùa Thông, chùa Hoa Long và đền thờ Trần Khát Chân… thời Trần; Thành nhà Hồ, Cung Bảo Thanh – thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của muôn dân Đại Việt; Khu di tích Lam Kinh, Thái miếu Bố Vệ thời Hậu Lê; Khu bái lăng Đa Bút, Yên Phú, lăng Lê Đình Châu, Nguyễn Văn Nghi, Quận Mãn, Ngô Thì Hiến, Ngô Thì Hải…, hành cung Vạn Lại, Yên Trường… thời Lê Trung Hưng; phủ Trịnh; Lăng miếu Gia Miêu – Triệu Tường thời Nguyễn…Những chứng tích thiêng liêng gắn với những bậc anh hùng, danh tướng vang danh sử Việt. Mà trong đó, thành Nhà Hồ là 1 di sản đại diện tiêu biểu nhất. Một công trình bằng đá kỳ vĩ, được xây dựng và tồn tại hơn 600 năm, để rồi vượt qua ranh giới địa lý và quan điểm khác biệt, tòa thành đá đã trở thành di sản văn hóa thế giới. 

Tường thành Nhà Hồ và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá xanh, đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau.
Thành Nhà Hồ và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá xanh, đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau.

Mỗi làng quê xứ Thanh đều gắn với một địa danh lịch sử. Với 1.535 di tích, ở đó không chỉ chứa đựng những giá trị văn hoá vật thể quý giá và đặc sắc, mà chính ở các di tích này còn tiềm ẩn nhiều giá trị văn hoá phi vật thể, gìn giữ trong lòng nó những quan niệm, phong tục tập quán, lễ nghi truyền thống và là “sân khấu” diễn xướng các trò chơi, trò diễn, âm nhạc, văn học dân gian đặc sắc. Đó là những lễ hội, mà điển hình phải kể đến là Lễ hội Đền Bà Triệu – di sản văn hóa phi vật thể quốc gia gắn với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm 248 và Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh với câu nói còn văng vẳng cùng sông núi “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi giặc Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”; lễ hội Lê Hoàn gắn với di tích quốc gia đặc biệt Đền thờ Lê Hoàn – Hoàng đế Lê Đại Hành; lễ hội Lam Kinh, gắn với di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh; lễ hội Cầu Ngư của nhân dân vùng biển, cầu mong mưa thuận gió hòa cho những con thuyền vượt sóng ra khơi;… 

Biểu diễn trò Xuân Phả. (Nguồn TTXVN)
Múa trò Xuân Phả trong Lễ hội Thanh Hóa. Ảnh: TTXVN

Các lễ hội còn gắn liền với các nghi lễ, lễ tục, các tín ngưỡng, ở đó có đủ các thần tích, huyền thoại như sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường, và nhiều loại hình văn hóa khác như, ngữ văn dân gian, tri thức dân gian, nghệ thuật dân gian, văn hoá ẩm thực, tục kiêng khem… Liệt kê đó, xứ Thanh cũng là quê hương của các điệu dân ca như hò Sông Mã, Chèo, Ca Trù, dân vũ, các trò chơi, trò diễn đặc sắc, nổi bật là các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Trò Xuân Phả, dân ca dân vũ Đông Anh,… gắn với các nhân vật, tín ngưỡng được thờ phụng. Mỗi lời ca, điệu hát, mỗi lễ hội đều là một mạch nguồn tinh thần, nối con người hôm nay với cha ông ngàn đời trước. 

Ngày nay du khách đến với những di sản trường tồn, hơn hết vừa là nơi tưởng nhớ công đức của tiền nhân, là những công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị lớn, vừa được hoà mình vào các hoạt động lễ hội, trò chơi, trò diễn và các tích trò đặc sắc nơi đây.

Xứ Thanh có hệ thống danh lam thắng cảnh núi non trùng điệp, những cánh rừng nguyên sinh như Xuân Liên, Pù Hu, Bến En…, hệ thống hang động: Bo Cúng, Cây Đăng, hang Dơi, hang Phi… kỳ bí, không khí mát lành, thác nước Chín tầng, Ma Hao, thác Muốn, thác Voi… tựa dải khăn von từ trời cao đổ xuống, đường đèo quanh co có sức hấp dẫn du khách khám phá và chinh phục. Những địa danh Cổng trời, Son Bá Mười… quanh năm mây phủ, khí hậu ôn hoà chẳng khác gì như Sa Pa, Đà Lạt hiện hữu ở xứ Thanh. Đến với bản làng miền Tây tỉnh Thanh, du lịch cộng đồng ở Pù Luông, bản Đôn, bản Hiêu, Kho Mường… cảm nhận giá trị văn hóa sắc thái của các dân tộc Thái, Mường về phong tục, tập quán, lễ hội, trò chơi, trò diễn, ẩm thực, trang phục,… du khách dễ dàng bắt gặp và chứng kiến những bàn tay tài hoa dệt nên những tấm thổ cẩm muôn màu sắc, thưởng thức các sản vật của núi rừng như cá suối nướng, xôi ngũ sắc, rượu nếp nương, rượu cần… tận hưởng không khí trong lành mát mẻ của thiên nhiên để rồi lòng bỗng xốn xang, nhẹ nhõm lạ thường. 

Thượng sơn Son – Bá – Mười, nơi thâm sơn cùng cốc đẹp như tranh vẽ.
Vẻ đẹp miền sơn cước – Thượng sơn Son – Bá – Mười.

Với 102 km bờ biển, 2 đảo và 1 bán đảo, thềm lục địa có diện tích rộng 18.000km2 là ngư trường đánh bắt hải sản tiện lợi, làm nên văn hoá ẩm thực, mang đậm hương vị biển khơi. Ở các cửa lạch, nơi sông gặp biển hình thành nên những cửa sông lớn, là nơi tụ hợp đông dân cư làm nghề đánh cá, chế biến hải sản.

Dọc dài theo chân sóng, nhiều nơi “núi nhoài ra tận biển”, tạo cho tỉnh Thanh có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như: Thắng cảnh Thần Phù, bãi An Tiêm, cửa biển Linh Trường, Lạch Bạng, thắng cảnh Thập Bát Mã Sơn… và các bãi biển kỳ thú như: Sầm Sơn, Hải Tiến, Hải Hoà, vụng biển Nghi Sơn… Những lễ hội truyền thống, chương trình nghệ thuật ven biển và hoạt động văn hóa – thể thao tổ chức định kỳ đã biến bờ biển nơi đây thành một không gian cộng đồng sôi động, nơi người dân và du khách hòa mình vào nhịp sống biển. Bên cạnh không gian cộng đồng và lễ hội, văn hóa tâm linh cũng đóng vai trò then chốt trong trải nghiệm du lịch biển. Những địa danh như chùa Cô Tiên trên núi Trường Lệ, đền Độc Cước, hòn Trống Mái, chùa Bụt không chỉ là thắng cảnh mà còn là nơi du khách tìm thấy sự an yên, kết nối tín ngưỡng và chiêm nghiệm những lớp trầm tích văn hóa của vùng biển xứ Thanh.

Biển xứ Thanh không chỉ có non xanh, nước biếc, sóng vỗ đầu ghềnh, nắng vàng bãi cát… mà còn ẩn chứa biết bao huyền thoại và cổ tích của ngày hôm qua, ngày hôm nay và những câu chuyện tình của biển xốn xang lòng tao nhân, mặc khách và cả những ai nữa quên cả lối về.

Người dân miền biển đánh cá lúc bình minh. Nguồn: Amateur Pic.
Người dân miền biển đánh cá lúc bình minh. Nguồn: Amateur Pic.

Từ non cao về với biển khơi, dòng sông Mã chảy suốt hàng vạn năm không khi nào ngơi nghỉ ấy không chỉ cung cấp dòng nước mát lành mà còn ăm ắp mỡ màu bồi đắp phù sa, trầm tích các lớp văn hoá mở ra miền đồng bằng rộng lớn, êm ả chảy giữa đôi bờ lúa ngô tươi tốt và những xóm làng trù phú, làm nên những mùa vàng mong ước. Bức tranh quê của miền Thanh bảng lảng khói lam chiều và cánh diều bay bổng luôn là nỗi nhớ, niềm mong và tìm về không chỉ của những người con nơi đây và cả nhiều du khách.

VII. Du Lịch Thanh Hóa

Hiện tại, tỉnh Thanh Hóa xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Tỉnh đã thực hiện quy hoạch hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch.

1. Các lễ hội văn hóa đặc trưng

Lễ hội du lịch biển Sầm Sơn ngoài chương trình nghệ thuật đặc sắc còn có nhiều hoạt động văn hóa, thể thao hấp dẫn, kéo dài trước, trong và sau lễ hội. Nổi bật như các giải bóng bàn, cầu lông, pickleball, giải đua xe đạp mở, võ, chạy Marathon chào,… Cùng với đó, các hoạt động mang đậm nét văn hóa dân gian cũng được tổ chức như lễ hội bánh chưng – bánh giầy, lễ hội cầu ngư – bơi chải… Đây là dịp để giới thiệu đến du khách những diện mạo đô thị, chất lượng dịch vụ và tiềm năng phát triển du lịch biển.

Lễ hội du lịch biển Sầm Sơn luôn đầy sôi động.
Lễ hội du lịch biển Sầm Sơn luôn đầy sôi động.

Lễ hội Lam Kinh Lễ hội được diễn ra ở Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa, lễ hội mang đậm tính cung đình, gắn với các nghi thức trang trọng, tôn nghiêm nhằm tôn vinh, ca ngợi công đức Anh hùng dân tộc Lê Lợi và vương triều Hậu Lê trong lịch sử. Cùng với đó, phần hội là bức tranh toàn cảnh về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nổi bật với các nét chấm phá là “hội thề Lũng Nhai”, “Lê Lai cứu chúa”, “Giải phóng thành Đông Quan”, “Lê Thái tổ đăng quang”…; đồng thời, lễ hội Lam Kinh còn có các trò diễn dân gian nhiều màu sắc, giàu sức biểu cảm và giá trị nghệ thuật, mà di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trò Xuân Phả là một ví dụ điển hình…

Lễ hội Đền Bà Triệu là một lễ hội văn hóa lớn ở Thanh Hóa, được tổ chức hằng năm vào ngày giỗ của nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh (ngày 22 tháng 2 âm lịch) tại Khu Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Bà Triệu, xã Triệu Lộc. Lễ hội có các hoạt động văn hóa, thể thao, tâm linh đặc sắc như rước kiệu, tế lễ, và đã được công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia. 

Nghi thức rước kiệu thần trong khuôn viên đền Bà Triệu. Ảnh: Đặng Trung
Nghi thức rước kiệu thần trong khuôn viên đền Bà Triệu. Ảnh: Đặng Trung

Trò Xuân Phả, Khởi nguồn từ làng Xuân Phả, Xuân Trường, Thọ Xuân cũ, vùng đất giàu truyền thống lịch sử, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lừng lẫy 1418 -1427, Trò Xuân Phả đã trở thành một vùng sáng trong bức tranh văn hóa xứ Thanh. Các nhà nghiên cứu cho rằng trò diễn này xuất hiện từ thời nhà Đinh 968–980, và phát triển rực rỡ dưới triều Lê Sơ. Mỗi điệu múa trong Trò Xuân Phả là một bức tranh văn hóa dân gian sống động, tái hiện không gian ngoại giao và giao lưu văn hóa đa dạng giữa Đại Cồ Việt và các quốc gia lân bang. Năm điệu múa dân gian trong tích Trò Xuân Phả biểu trưng cho “Ngũ quốc lân bang đồ tiến cống”: Trò Hoa Lang tượng trưng cho Vương quốc Cao Ly; Trò Tú Huần tượng trưng cho Lục Hồn Nhung; Trò Ai Lao tượng trưng cho người Thái-Lào; Trò Ngô Quốc tượng trưng cho một quốc gia cổ đại ở Trung Quốc; Trò Chiêm Thành tượng trưng người Chăm-pa,…

Lễ hội Mường Xia, Lễ hội Mường Xia, đây là nét đẹp văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc Thái gắn liền với công ơn của tướng quân Tư Mã Hai Đào, người đã có công lớn trong việc diệt trừ quân xâm lược, trấn ải biên cương và mang lại cuộc sống thanh bình, ấm no cho người dân xứ Thanh.

Rước Hòn Đá Vía lên đền thờ Tư Mã Hai Đào. Ảnh: PVH. Quan Sơn
Rước Hòn Đá Vía lên đền thờ Tư Mã Hai Đào. Ảnh: PVH. Quan Sơn

Lễ hội Cầu Ngư là một lễ hội truyền thống của cư dân vùng biển Việt Nam, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông (Cá voi). Lễ hội được tổ chức hàng năm để thể hiện lòng biết ơn với biển cả, cầu mong một năm mùa màng bội thu, thuận buồm xuôi gió và bình an khi ra khơi. Đây là một nét đẹp văn hóa đặc sắc, phản ánh đời sống tâm linh và sự gắn bó của người dân với biển. 

Lễ hội Sòng Sơn – Ba Dội hay còn gọi là lễ rước bóng Thánh mẫu đền Sòng, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, tri ân Thánh mẫu Liễu Hạnh – một trong bốn vị Thánh bất tử của dân tộc Việt Nam. Lễ hội cũng là dịp tưởng nhớ công lao to lớn của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ, cách đây hơn 200 năm đã dừng chân tại đèo Ba Dội để cùng Ngô Thì Nhậm, Ngô Văn Sở chiêu mộ binh lính, tập kết quân lương, luyện tập nghĩa sĩ, luận bàn kế sách trước khi hành quân ra giải phóng Thăng Long.

Lễ hội Pôồn Pôông, Pôồn Pôông nghĩa là lễ hội chơi hoa, được tổ chức hàng năm vào các ngày rằm tháng Giêng, rằm tháng Ba, rằm tháng Bảy hay vào mùa gặt với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, mọi người mạnh khỏe, bản làng yên vui. Pôồn Pôông xuất phát từ sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường gồm 48 trò diễn xướng xoay quanh cây Bông – Là trung tâm của Lễ hội, biểu tượng của vũ trụ bao la, hội tụ đầy đủ vạn vật mà tạo hóa đã ban tặng cho con người.

Lễ hội Pôồn Pôông Vũ điệu văn hóa độc đáo của dân tộc Mường
Lễ hội Pôồn Pôông Vũ điệu văn hóa độc đáo của dân tộc Mường

Trò Chiềng là một lễ hội trò diễn dân gian có nguồn gốc từ làng Trịnh Xá, Thanh Hóa, cách đây gần 1.000 năm, gắn liền với công lao của Tướng quân Tam công Trịnh Quốc Bảo. Trò diễn này mô tả cuộc sống, chiến đấu và những ước mơ của người dân, phản ánh lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Lễ hội được diễn ra từ ngày 11 – 12 tháng Giêng hàng năm. Sáng ngày 11, dân làng làm lễ rước Thành hoàng ra bãi trò gồm các đội: voi, ngựa, rồng, đội cờ, đội Thiên vương, đội tế, phường bát âm, đội hát chèo, quan viên và dân làng xếp thành đoàn dài với màu sắc rực rỡ và âm thanh vui nhộn.

2. Các khu du lịch, di tích lịch sử và danh thắng nổi bật

Khu du lịch Sầm Sơn: Bãi biển Sầm Sơn, Lễ hội Sầm Sơn, Đền Độc Cước, Đền Cô Tiên, Hòn Trống Mái, Núi Trường Lệ

Biển Thanh Hóa địa chỉ yêu thích của du khách
Biển Thanh Hóa địa chỉ yêu thích của du khách

Các điểm du lịch biển khác: Bãi biển Hải Hòa, Hải Thanh, Hải Bình, Bãi biển Hải Tiến, Khu du lịch sinh thái Quảng Cư, Cửa biển Thần Phù, Lạch Bạng, Khu du lịch Nghi Sơn, Hòn Mê

Điểm du lịch sinh thái: Suối cá Cẩm Lương, Suối cá Cẩm Liên, Suối cá Văn Nho, Cửa Đạt, Am Tiên, Động Từ Thức, Động Kim Sơn, Động Long Quang, Động Tiên Sơn, Động Ngọc Hoàng, Hang Con Moong, hang Kho Mường, Hang Co Luồng, Núi Nưa, Núi Hàm Rồng, Núi Nhồi, Núi Nấp, Bãi cò Tiến Nông, Rừng Thông Đông Sơn, Khu rừng bảo vệ cảnh quan Đền Bà Triệu, Đèo Tam Điệp. Thác Chín tầng, Ma Hao, thác Muốn, thác Voi…

Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên: Vườn quốc gia Cúc Phương, VQG Bến En, VQG Xuân Liên. Khu bảo tồn Pù Hu, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, Khu bảo tồn thiên nhiên rừng sến Tam Quy.

Cảnh đẹp mùa lúa Phù Luông khiến nhiều người mong ngóng.
Cảnh đẹp mùa lúa Phù Luông khiến nhiều người mong ngóng.

Di tích và di chỉ khảo cổ: Đông Sơn, Núi Đọ, Cồn Chân Tiên, Khu di tích lò gốm Tam Thọ, Di chỉ Đa Bút

Di tích lịch sử: Đền thờ Mai An Tiêm, Đền Bà Triệu, Đền thờ Lê Hoàn, Đền thờ Dương Đình Nghệ, Thành nhà Hồ, La Thành Tây Đô, Đàn Nam Giao nhà Hồ, Đền Đồng Cổ, Đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai (Đền Tép), Khu di tích lịch sử Lam Kinh, Thái miếu nhà Hậu Lê, Phủ Trịnh và Nghè Vẹt, Khu lăng miếu Triệu Tường, Nhà Thờ Trạng Quỳnh, Đền thờ Lê Văn Hưu, Chiến khu Ba Đình, Chiến khu Ngọc Trạo, Bến phà Ghép, Cụm di tích lịch sử Nam Ngạn, Cầu Hàm Rồng, Cầu Đò Lèn, Nghè Xuân Phả. Đền thờ Trần Hưng Đạo, Đền thờ Quang Trung, Đền thờ Tống Duy Tân, Đền Chu Nguyên Lương, Đền thờ Lê Thành, Đền thờ Đào Duy Từ, Cụm di tích Lạch Bạng, Núi Văn Trinh – Đền thờ Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật,…

Di tích tôn giáo, tín ngưỡng: Đền Sòng, Phủ Na, Am Tiên, Phủ Sung, Khu du lịch tâm linh Đền Phố Cát, Chùa Báo Ân, Chùa Am Cát, Chùa Vồm, Chùa Thanh Hà, Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, chùa Chanh, chùa Mật Đa, Tòa Giám mục  Thanh Hà, Nhà thờ Ba Làng (Đức Bà – 1893)… 

3. Các làng nghề truyền thống

Chiếu cói Nga Sơn Một vùng đất nằm sát biển, cách trung tâm Thanh Hoá 40km về hướng Ðông Bắc. Nằm dọc bờ biển là một vùng triều mầu mỡ, ngoài trồng sú vẹt, mảnh đất này chỉ trồng được một loại cây duy nhất là cói, dệt nên chiếu Nga Sơn. Nói đến Thanh Hoá, không ai là không biết chiếu cói Nga Sơn, một sản phẩm nổi tiếng của vùng đất ven biển này, vật biểu trưng cho niềm hạnh phúc của những đôi lứa yêu nhau,… Chiếc chiếu nổi tiếng đã được lưu truyền qua bao đời, bao thế hệ trên khắp mọi miền của đất nước. 

Cây Cói làm chiếu Nga Sơn được phơi trên những cánh đồng
Cây Cói làm chiếu Nga Sơn được phơi trên những cánh đồng.

Làng chế tác đá Nhồi, nguồn nguyên liệu dồi dào và nhiều loại đá quý hiếm ở núi Nhồi cùng bàn tay tài hoa của những người thợ chế tác qua các thế hệ, đã làm nên thương hiệu làng nghề truyền thống chế tác đá làng Nhồi của xứ Thanh, sánh cùng với các làng đá nổi tiếng cả nước như làng đá Ninh Vân (Ninh Bình), làng đá Ái Nghĩa (Quảng Nam), làng đá ở Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), làng đá Bửu Long (Đồng Nai)…

Làng đúc đồng Trà Đông, Làng Trà Đông, xưa kia gọi là Sơn Trang, tên nôm là Kẻ Chè, một vùng đất cổ cách tỉnh lỵ Thanh Hóa 12 km về phía Tây Bắc, nằm trong địa vực của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng. Đến làng Trà Đông ngày nay, giữa khói bụi than lửa, ta sẽ thấy được các nghệ nhân đúc đồng nhẫn nại, tỉ mẩn khắc từng nét hoa văn lên khuôn đúc, các sản phẩm làm ra giữ được nét độc đáo, đặc trưng mà không nơi nào sánh được. Và mới đây, nghề đúc đồng Trà Đông đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, là nơi lưu giữ kỹ thuật đúc đồng truyền thống độc đáo của cả nước, là địa chỉ du lịch làng nghề thu hút đông đảo du khách gần xa.

Thổ cẩm Bá Thước, Quan Sơn Đa phần cư dân huyện miền núi Bá Thước là đồng bào dân tộc Thái, Mường có trang phục truyền thống chủ yếu được may bằng vải thổ cẩm nên nghề dệt sản phẩm đặc trưng này đã tồn tại nhiều đời nay. Với sự phát triển của hoạt động du lịch cộng đồng nghề dệt thổ cẩm từ chỗ tự phát, nay đã, đang phát triển mạnh thành các làng nghề tập trung đồng thời xây dựng sản phẩm thổ cẩm trở thành sản phẩm OCOP.

nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào
Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của bà con người Dân Tộc.

Làng mộc Đạt Tài Nơi âm vang của tiếng đục, tiếng đẽo đã đồng hành cùng người dân suốt hơn năm thế kỷ, là vùng đất kết tinh truyền thống chế tác gỗ nổi bật của xứ Thanh. Khi đặt chân đến đây, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng các tác phẩm gỗ tinh xảo mà còn cảm nhận được chiều sâu tâm hồn và niềm tự hào dân tộc qua từng người thợ Đạt Tài.

Nghề làm chè lam Phủ Quảng có thể xuất hiện từ khi Hồ Qúy Ly lên làm vua, chọn thành nhà Hồ làm kinh đô năm 1400. Làng làm nghề lâu đời, có kinh nghiệm và bí quyết riêng, mật mía được lấy ở vùng Thạch Thành, nơi được coi là đất mía của tỉnh nên có vị ngọt đậm và sóng sánh hiếm có. Chè lam phủ Quảng có vị dẻo thơm của gạo nếp, vị bùi của lạc, vị cay dịu của gừng, vị ngọt đậm của mật mía. Miếng chè lam có màu nâu nhạt, có hoa trắng do lạc tạo nên.

Mỹ nghệ sơn mài Tiên Sơn là một trong những nghề thủ công truyền thống nổi tiếng ở Thanh Hóa, qua bàn tay khéo léo, tâm hồn bay bổng đầy chất nghệ thuật của người thợ thủ công xứ Thanh những sản phẩm mỹ nghệ vô cùng tinh tế ra đời. Những đường nét hoa văn trên các sản phẩm mỹ nghệ Tiên Sơn đều đạt độ tỉ mỉ, chi tiết yêu cầu kỹ thuật cao theo từng công đoạn. Hiện nay, các sản phẩm mỹ nghệ Tiên Sơn đã có mặt ở rộng khắp các thị trường tiêu thụ trong nước và được một số thị trường khó tính chấp nhận như Nhật Bản, Úc, Mỹ, EU…

Mỹ nghệ sơn mài Tiên Sơn
Mỹ nghệ sơn mài Tiên Sơn.

Gốm làng Vồm Làng Vồm thuộc Thiệu Khánh,Thiệu Hóa cũ, gọi là gốm làng Vồm nhưng thực chất những sản phẩm gốm được sản xuất ở làng Chành kế bên nhưng tiêu thụ tại chợ Vồm. Đây là một sản phẩm lâu đời của vùng đất cổ Doanh Xá.Gốm Vồm nổi tiếng là sản phẩm gốm nhẹ lửa, bằng chất liệu đất sét trắng mềm, dẻo, ít pha tạp, các sản phẩm cũng rất đa dạng. 

Nem, giò, chả Đông Hương Nghề làm nem, giò chả, đặc biệt là nem chua là nghề truyền thống lâu đời, niềm tự hào của người dân xứ Thanh. Nem, giò, chả của Thanh Hóa đặc biệt bởi những công thức bí truyền của người dân nơi đây kết hợp cùng với những nguyên liệu được chọn lựa kĩ càng và một bàn tay khéo léo.

Làng nghề làm bánh gai Tứ Trụ thuộc làng Mía, Thọ Diên, Thọ Xuân từ lâu đã nổi tiếng với hương vị thơm ngon, đặc biệt của món ăn đậm chất dân dã. Mới thoạt nhìn hình dáng nhỏ nhắn của bánh gai, ít ai nghĩ rằng, quy trình làm bánh từ lúc lựa nguyên liệu đến khi bánh thành hình rất phức tạp, đòi hỏi sự kiên trì, tỉ mẩn và cả con mắt nghề lâu năm của thợ bánh.

Làng nghề dệt nhiễu Hồng Đô Cách thành phố Thanh Hóa khoảng 15km, làng Hồng Đô nằm cạnh dòng sông Chu, từ xa xưa, tơ Hồng Đô đã nổi tiếng là loại tơ mềm, đẹp, bền, từng được nhiều người ưa chuộng. Nhiều sản phẩm làm bằng chất liệu tơ tằm từ làng ươm tơ, dệt nhiễu Hồng Đô không chỉ được tiêu thụ ở trong nước, mà còn được nhiều nước trên thế giới đón nhận… 

Nghề nuôi tằm, ươm tơ và dệt nhiễu.
Nghề nuôi tằm, ươm tơ và dệt nhiễu.

Nghề Mây tre đan Hoằng Thịnh Có từ thời nhà Nguyễn, khoảng cuối thế kỷ 19. Trải qua hơn 100 năm tồn tại và phát triển với bao biến cố, thăng trầm, nghề mây tre đan Hoằng Thịnh ngày càng khởi sắc, đời sống của người dân làng nghề từng bước được cải thiện bằng chính nghề truyền thống của mình.

Dệt thổ cẩm Làng Ngọc – Cẩm Thủy là một địa danh du lịch nổi tiếng của Thanh Hóa với suối cá thần được nhiều người biết đến như một nét đẹp kì diệu của tạo hóa. Ngoài ra làng Ngọc còn nổi tiếng bởi nghề dệt thổ cẩm với những sản phẩm mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc Mường. Trước đây, các sản phẩm dệt thổ cẩm chủ yếu được sử dụng trong gia đình, làm của hồi môn khi con gái đi lấy chồng. Hiện nay, sản phẩm này đã được đầu tư phát triển và trở thành món quà lưu niệm được yêu thích khi có dịp ghé thăm suối cá thần.

Nạo ngao Sầm Sơn Thiên nhiên ban tặng cho Sầm Sơn một bãi biển tuyệt đẹp lại vừa ẩn chứa những tài nguyên biển phong phú. Ngao biển là một loại hải sản rất sẵn ở vùng biển này, cũng chính bởi vậy nghề nạo ngao biển của Sầm Sơn trở nên phát triển. Khi hừng đông còn chưa sáng rõ trên các bãi biển Sầm Sơn, đặc biệt là bãi bồi Lạch Hới đã thấy thấp thoáng bóng dáng ngư dân đi nạo ngao.

Nghề cào ngao ở những bãi bồi. Ảnh: BTH
Nghề cào ngao ở những bãi bồi. Ảnh: BTH

Dệt sợi gai là nghề đặc trưng của người Thổ ở Thanh Hóa, một nghề lâu đời chứ đựng bản sắc, tinh hoa văn hóa xứ Thanh. Sợi gai được dệt từ vỏ cây gai, một loại cây thuộc họ tầm ma dưới bàn tay khéo léo của những Mê, những Ún trong bản làng nghèo khó. Người Thổ ở đây có những bí quyết dệt sợi gai rất riêng khiến cho sản phẩm của họ cực kì tinh xảo và bắt mắt.

 VIII. Ẩm thực Xứ Thanh

Ẩm thực xứ Thanh mang nhiều nét độc đáo
Ẩm thực xứ Thanh mang nhiều nét độc đáo

Đến Thanh Hóa du khách sẽ được thưởng thức những món đặc sản của xứ Thanh như: Nem chua, Chả tôm, Bánh cuốn, Bánh Khoái, Nem Nướng Thanh Hóa, Chè lam Phủ Quảng, Bánh gai Tứ Trụ (Thọ Xuân), Bánh răng bừa, Bánh đúc sốt, bánh Nhè, Bánh Khoái, Canh lá đắng người Mường, Bánh cuốn các món chế biến từ hến làng Giàng (Thiệu Hóa), Bánh đa cầu Bố (tp. Thanh Hóa), Mía đen Kim Tân, Dê núi đá, Gà đồi (Vĩnh Lộc), Vịt Cổ Lũng, Cá Rô đầm Sét nướng, Ốc nhồi ống nứa, Ốc Mút chùa Thanh Hà, Phi cầu Sài, thịt Trâu nấu lá Lồm, chim mía (Thạch Thành), Rượu Nga Sơn, Gỏi nhệch Nga Sơn, Sâu Măng, Chả thịt lam, Nem lợn mán ống luồng, Măng Đắng, Nước Mắm Do Xuyên – Ba Làng, Mắm Tép Hà Trung, Mắm Cáy, Miến dong Cẩm Thủy, Bánh Đa Minh Châu, bưởi Luận Văn, rượu Chi Nê Yên Định, hay các món hải sản: cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá tràu từ các vùng ven biển Sầm Sơn, Nghi Sơn, Nga Sơn.

Từ ngàn xưa, người xứ Thanh đã biết hòa mình cùng thiên nhiên, sống chan hòa giữa sông và núi, giữa biển và rừng, giữa đồng xanh và sóng bạc. Chính sự đa dạng về địa lý, khí hậu, tộc người đã tạo nên một văn hóa đa sắc màu, phong phú mà thống nhất. Ở nơi ấy, câu hò sông Mã, điệu hát Xường, khúc Khặp, vũ điệu Pôồn Pôông,… vẫn vang vọng như tiếng lòng của đất và người Thanh Hóa dung dị, mộc mạc mà sâu thẳm.

KPVN Tổng Hợp

 

Những Tour Du Lịch Hot Ở Ninh Thuận

-7%
Thời gian: 1 ngày
Ngày khởi hành: Hàng ngày
Giá gốc là: 1.500.000 ₫.Giá hiện tại là: 1.400.000 ₫.
-7%
Thời gian: 1 ngày
Ngày khởi hành: Hàng ngày
Giá gốc là: 1.500.000 ₫.Giá hiện tại là: 1.400.000 ₫.
Thời gian: 1 ngày
Ngày khởi hành: Hàng ngày
Thời gian: 1 ngày
Ngày khởi hành: Hàng ngày

Những Mảnh Đất Thuộc Vùng Bắc Trung Bộ